Từ
nhiều năm nay, vị thuốc nhục thung dung được một số người bán thuốc dân
gian và không ít "thượng đế" tôn vinh như một loại "thần dược" của
đấng mày râu, và còn được thêu dệt bởi một truyền thuyết hết sức ly kỳ -
lan truyền rộng ở những khu du lịch miền núi phía Bắc như Sa Pa, Hà
Giang... và ở cả một số cửa hiệu bán thuốc tăng cường sinh lý. Tương
truyền: Nhục thung dung là một loại "thần dược", có tác dụng cực tốt,
giúp các quý ông tăng sức mạnh trong chuyện phòng the. Đó là một loại
nấm đặc biệt, rất quý hiếm, vì chỉ mọc lên từ những chỗ mà tinh dịch của
con ngựa bạch đực rớt xuống, trong khi giao phối với ngựa cái...
Loài thực vật kỳ lạ
Truyền thuyết nói trên, tuy phản ánh một
phần sự thật, đó là tác dụng bổ ích của nhục thung dung, đối với chức
năng sinh sản của con người, nhưng có những lầm lẫn về mặt thực vật.
Trước hết, nhục thung dung không phải là một loại nấm, mà là một loại
"thảo bản" (cây thảo, cỏ). Nhục thung dung không phải là một loài thực
vật thông thường, mà là loài ký sinh, phải sống nhờ (ký sinh) vào cây
khác. Mùa xuân đến, mầm cây nhục thung dung đâm thủng mặt đất, mọc nhô
lên trên, nhìn giống như một cái chày với đầu hơi nhọn, bên ngoài phủ
kín lớp lá vẩy màu vàng, lóng lánh dưới ánh nắng mặt trời, như ngọn
tháp vàng, rất hoành tráng. Cây thường cao khoảng từ 15-30cm, có khi tới
hàng mét. Vào các tháng 5, tháng 6 cây ra hoa dày đặc; hoa mọc ra từ
chóp (phần ngọn), màu vàng nhạt, hình chuông, xẻ 5 cánh, cánh hoa màu
xanh hoặc tím nhạt; tới các tháng 6, tháng 7 kết quả, nhỏ li ti, màu
xám. Nhờ có lớp lá vẩy phủ kín toàn bộ bề mặt bên ngoài, nên tránh bị
mất nước và có thể chịu đựng được điều kiện khí hậu khắc nghiệt ở vùng
hoang mạc, và được mệnh danh là "cây dũng sĩ trên hoang mạc". Như vậy,
nhục thung dung không sinh ra từ những giọt tinh của ngựa bạch, nhưng
vẫn là một loại thực vật hết sức đặc biệt.
Dược liệu từ nhục thung dung
Trên thực tế, dược liệu - vị thuốc nhục
thung dung được khai thác từ 3 loài cây cùng họ nhục thung dung
(Orobranchaceae): Thông dụng nhất là cây nhục thung dung - có tên khoa
học Cistanche salsa (C. A. Mey.) G. Bek; Thứ đến là cây thung dung - có
tên khoa học là Cistanche deserticola Y. G. Ma. Thứ ba là cây mễ nhục
thung dung - có tên khoa học Cistanche ambigua G. Beck (Bge).
Vị thuốc nhục thung dung, hiện tại ở
nước ta còn hoàn toàn phải nhập khẩu. Tại những nơi có cây mọc, người ta
thu hoạch vào hai mùa xuân và thu. Loại thu hoạch vào mùa xuân, gọi là
điềm thung dung (thung dung ngọt) hay đạm thung dung (thung dung nhạt).
Dược liệu có hình gần trụ tròn, hơi dẹt, một đầu hơi nhỏ, hơi cong, dài
khoảng 10-30cm, đường kính 3-6mm, cây chưa phân nhánh. Bề mặt màu xám
hoặc màu nâu, phủ kín lớp lá vẩy dầy đặc, nung núc như thịt, xếp theo
hình mái ngói, chất thuốc chắc, hơi dai, khó bẻ gãy, có chút chất dầu.
Mặt cắt màu nâu nhạt, có những đốm trắng hoặc khe nứt, nếm thấy vị hơi
ngọt. Điềm thung dung là loại dược liệu chất lượng cao, vì có chứa
nhiều loại hoạt chất.
Bổ ích với cả nam và nữ
Nhục thung dung là vị thuốc đã được sử
dụng trong Đông y từ 2000 năm trước và đã được đưa vào trong sách Thần
Nông bản thảo kinh, bộ sách thuốc cổ nhất của Đông y học. Vị thuốc còn
có những tên khác, như nhục tùng dung, thung dung, địa tinh (nghĩa là
tinh chất của đất), kim duẩn (là cây măng vàng), đại vân, hắc tư lệnh
(vì có tác dụng bổ thận mạnh).
Theo Đông y, nhục thung dung có vị ngọt,
mặn, tính ấm; vào 2 kinh thận, đại tràng; Có tác dụng bổ thận, ích
tinh, nhuận táo, hoạt tràng. Chủ trị nam giới liệt dương (dương nuy), nữ
giới không có thai, đới hạ (nhiều khí hư), băng lậu, lưng gối lạnh đau,
cơ bắp không có sức, huyết khô tiện bí (táo bón do huyết khô).
Các kết quả nghiên cứu hiện đại cho
thấy, hàm lượng hoạt chất sinh học trong nhục thung dung rất phong phú.
Theo Hiện đại dưỡng sinh bảo kiện trung dược từ điển, nhục thung dung
có chứa các chất như boschnaloside, orobanin, 8- epilogahic acid,
betaine,... Còn chứa nhiều loại acid hữu cơ và trên 10 acid amin. Theo
các nghiên cứu dược lý, nhục thung dung là loại thuốc có tác dụng kiềm
chế quá trình lão suy và kéo dài tuổi thọ, tăng thể lực, tăng cường khả
năng miễn dịch, có tác dụng hạ huyết áp ở mức độ nhất định và có tác
dụng như một loại hormon sinh dục, có khả năng kích thích và điều tiết
hoạt động của tuyến thượng thận, khắc phục tình trạng chức năng tuyến
thượng thận bị suy giảm và dẫn tới các bệnh liên quan.
Như vậy có thể thấy, nhục thung dung là vị thuốc bổ, với nhiều tác dụng quý, và có ích đối với cả nam giới và nữ giới.
Một số phương thuốc có sử dụng vị nhục thung dung:
- Chữa dương nuy (liệt dương, rối loạn cương):
(1). Nhục thung dung 30g, dâm dương
hoắc 50g, rượu trắng nửa lít. Ngâm ít nhất 1 tuần, hàng ngày lắc bình.
Mỗi ngày uống 3 lần, mỗi lần 15-20ml.
(2). Nhục thung dung 25g, gạo tẻ 50
-100g; thêm nước, cho vào nồi gốm, nấu to lửa cho sôi, sau nấu nhỏ lửa
cho đến khi cháo chín nhừ, thêm muối, mì chính, chia ra ăn 2 lần, sáng
sớm và buổi tối. Người âm hư hoặc bí đại tiện do thực nhiệt kiêng dùng.
- Chữa di tinh: Nhục thung dung (thái nhỏ) 30g, thỏ ty tử 10g, xương sống dê 500g, gạo tẻ 50-100g, nấu cháo ăn trong ngày.
- Chữa tảo tiết (xuất tinh sớm):
Nhục thung dung 100g, tỏa dương 100g, long cốt 50g, tang phiêu tiêu 50g,
phục linh 25g, rượu trắng 3 lít. Ngâm ít nhất 15 ngày, thỉnh thoảng lắc
bình. Mỗi ngày uống 2 lần, mỗi lần 20-30ml.
- Chữa vô sinh ở nam giới: Nhục
thung dung (thái nhỏ) 30g, nhân sâm (thái nhỏ) 15g, thục địa hoàng 15g,
hải mã 10g, lộc nhung (thái nhỏ) 10g, rượu trắng 1 lít. Ngâm ít nhất 1
tháng; sau đó mỗi ngày uống 2 lần, mỗi lần 15-20ml; khi bị cảm phát sốt
kiêng dùng.
- Chữa nữ giới vô sinh, tình dục
lạnh nhạt: + Nhục thung dung 50g, ích mẫu thảo 30g, đương quy 30g, xuyên
khung 30g, xích thược 25g, tiên linh tỳ 50g, rượu trắng 2 lít. Ngâm ít
nhất trong 1 tháng. Mỗi lần dùng 15-20ml, hòa với mật ong; ngày uống 2
lần. + Nhục thung dung 25g, thỏ ty tử 15g, sơn dược 30g, thịt dê nạc
500g, gạo tẻ 50 - 100g, mắm muối gia vị lượng thích hợp. Thịt dê thái
nhỏ, các vị thuốc cho vào túi vải buộc kín, cùng với gạo nấu cháo. Thêm
gia vị, chia ra ăn trong ngày.
- Chữa suy nhược thần kinh: Nhục
thung dung 10g, sơn thù du 5g, thạch xương bồ 4g, phục linh 6g, thỏ ty
tử 8g, nước 600ml, sắc còn 200ml. Chia 3 lần uống trong ngày. Hâm nóng
thuốc khi uống.
- Chữa tiểu tiện nhiều lần: Nhục
thung dung 500g, thục địa 200g, sơn dược 200g, thỏ ty tử 200g, ngũ vị tử
50g. Tất cả sấy khô, tán thành bột mịn, trộn với mật làm viên to cỡ hạt
đỗ. Ngày uống 2 lần, sáng và chiều, mỗi lần 5g, chiêu thuốc bằng nước
muối loãng.
- Chữa đại tiện táo bón: Nhục thung
dung 15g, thảo quyết minh (hạt muồng ngủ) 10g, mật ong lượng thích hợp.
Nhục thung dung, thảo quyết minh tán thô; sắc nước hoặc hãm nước sôi,
chế thêm mật ong, uống thay nước trong ngày.
- Chữa tóc bạc sớm: Nhục thung dung
50g, kỷ tử 100g, cam cúc hoa 50g, thục địa hoàng 50g, thần khúc 50g,
nhục quế 30g, rượu trắng 2.500ml. Các vị thuốc giã nhỏ, bọc vào túi vải,
ngâm trong rượu trắng, ít nhất một tháng, chắt lấy rượu sử dụng. Ngày
uống 3 lần, mỗi lần 10ml.
Theo - sức khỏe đời sống